Dấu ấn Xô Viết – Nghệ Tĩnh trên hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do

Trong giai đoạn 1929-1933, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ các nước tư bản, trong đó có Pháp đã lan nhanh sang các nước thuộc địa và phụ thuộc. Dù ở Pháp, cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra muộn hơn so với một số nước tư bản khác, song trước ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, giới cầm quyền nước này đã thi hành nhiều chính sách nhằm cứu vãn quyền lợi cho giai cấp tư sản Pháp và tay sai bản xứ.

TINH THẦN QUẬT KHỞI CỦA XÔ VIẾT NGHỆ – TĨNH

Những chính sách mà Pháp thi hành ở Đông Dương tác động xấu đến tình hình kinh tế – xã hội, làm cho nền kinh tế Đông Dương vốn phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Pháp đã nhanh chóng suy thoái: kinh tế điêu đứng, nông nghiệp nghèo nàn, công nghiệp suy sụp, xuất và nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang; đồng thời, cũng làm cho tình hình chính trị ngột ngạt, đời sống của nhân dân Đông Dương sa sút nghiêm trọng, nhất là giai cấp công nhân và nông dân…

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng, ở Việt Nam, từ thành thị cho tới nông thôn, tình trạng thất nghiệp, đói kém ngày càng trầm trọng. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội đã làm cho những mâu thuẫn vốn có trong xã hội bộc lộ sâu sắc hơn, gay gắt hơn, nhất là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Trước tình hình đó, bất chấp việc đàn áp, khủng bố dã man của thực dân Pháp, phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân ngày càng sục sôi. “Sự áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết. Chính vì vậy, phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi khóa, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng cửa hàng, nhân dân cả nước đang vùng lên chống bọn đế quốc”(1).

Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên; trong đó khẳng định “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(2). Đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; vai trò và sức ảnh hưởng của Đảng ngày càng lan rộng trong quần chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam ngày càng phát triển. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân cũng diễn ra ở nhiều nơi, với các hình thức như đòi chia ruộng đất công của làng xã, đòi lại các khoản bị hào lý tham nhũng… và rầm rộ nhất là từ Ngày Quốc tế Lao động 1/5.

Cụ thể, ở Nghệ An, công nhân và nông dân thành phố Vinh biểu tình lớn. Cùng với đó, nông dân các làng Yên Dũng, Lộc Đa, Đức Thịnh, Tân Hợp cũng biểu tình kéo vào thành phố phối hợp với công nhân các nhà máy đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế, phản đối chính sách khủng bố của chính quyền thuộc địa… Ở Hà Tĩnh, trong ngày 1/5, cờ đỏ được treo trước cửa Tòa sứ thị xã Hà Tĩnh, trên nóc nhà thờ huyện Nghi Xuân; nhiều truyền đơn của Đảng xuất hiện ở huyện Đức Thọ, Can Lộc, Cẩm Xuyên; nhiều cuộc mít tinh được tổ chức ở Can Lộc, Thạch Hà…

Cuộc biểu tình ngày 1/9 ở Thanh Chương được coi là mốc mở đầu đánh dấu sự ra đời của chính quyền Xô viết ở Nghệ – Tĩnh và sự kiện lịch sử này đã đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến”. Tiếp đó, các cuộc biểu tình của nông dân ở các huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Diễn Châu… (Nghệ An) và ở Can Lộc, Thạch Hà, Kỳ Anh, Hương Sơn, Cẩm Xuyên… (Hà Tĩnh) diễn ra liên tục. Đặc biệt, phong trào đấu tranh của công – nông Nghệ – Tĩnh đã lôi cuốn đông đảo trí thức, học sinh và các tầng lớp nhân dân tham gia, làm cho chính quyền tay sai bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã.

Tiếng vang của những sự kiện chính trị diễn ra ở Ngệ An và Hà Tĩnh ngày 1/5 không chỉ khẳng định thắng lợi của giai cấp công nhân và nông dân hai tỉnh trong tiến trình đấu tranh cách mạng để giành độc lập, tự do mà còn cho thấy: “Đứng về cả nước mà xét, ngày 1/5/1930 có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là lần đầu tiên vô sản Đông Dương xông pha lửa đạn để biểu dương tinh thần đoàn kết cách mạng quốc tế của mình”(3). Có thể nói, sự kiện kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930 là mở đầu cho cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là sự ra đời của các Xô viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh sau đó và đây cũng chính là lần đầu tiên công nhân và nông dân sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.

Sau ngày 1/5, phong trào đấu tranh lan rộng và phát triển mạnh trên cả nước, nhất là ở Trung Kỳ và Nam Kỳ (từ tháng 6 đến cuối năm 1930). Làn sóng đấu tranh cách mạng của quần chúng đã buộc chính quyền thuộc địa phải thi hành một số chính sách đối với người lao động như trả tự do cho một số người bị bắt trong các cuộc biểu tình, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân, hoãn thuế cho nông dân… Vì thế, để duy trì và đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng ở cả 3 miền, nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh, Đảng kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp khác không lơ là cảnh giác trước một số nhân nhượng của kẻ thù mà phải tiếp tục đoàn kết để đấu tranh và kiên trì đấu tranh ủng hộ giai cấp công – nông Nghệ – Tĩnh.

Trên đà phát triển, những ngày tháng 8, phong trào đấu tranh ở Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ hơn, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân nhà máy rượu Chợ Lớn, ở Công ty Dầu lửa Sài Gòn và các cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân ở Hóc Môn, Trà Vinh, Sa Đéc… Còn ở Trung Kỳ, ngày 1/8, nhân kỷ niệm Ngày quốc tế đỏ, toàn thể công nhân khu công nghiệp Vinh – Bến Thủy tổng bãi công, phản đối chiến tranh đế quốc, kêu gọi công nhân đoàn kết với nông dân và binh lính đấu tranh chống chính quyền thuộc địa. Tiếp đó, nhiều cuộc biểu tình, bãi công diễn ra ngày càng quyết liệt; nhiều cuộc biểu tình còn có sự phối hợp giữa công nhân và nông dân khiến chính quyền thuộc địa lo ngại. Cụ thể, công nhân nhà máy Diêm Bến Thủy đấu tranh liên tục và được công nhân nhà máy Xe lửa Trường Thi, công nhân bốc vác thành phố Vinh hưởng ứng và ủng hộ… Các cuộc đấu tranh của nông dân Thanh Chương biểu tình đòi hoãn thuế, bỏ thuế hoa lợi; nông dân Anh Sơn, Nghi Lộc, Nam Đàn, Quỳnh Lưu biểu tình đòi khất sưu, hoãn thuế… đã lan rộng ra hầu khắp các huyện ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong cuộc vận động 1/8, Đảng Cộng sản hô hào quần chúng đấu tranh theo các khẩu hiệu lớn: “Ủng hộ Liên bang Xô viết  và phong trào giải phóng ở các thuộc địa!”, “Đánh đổ đế quốc Pháp, địa chủ và quan làng!”, “Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập!”, “Lập chánh phủ công nông!”, “Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ bổn xứ và ngoại quốc và đem phát cho dân cày!”, “Phản đối khủng bố trắng. Thả hết thảy tù chánh trị!”, “Mỗi ngày làm tám giờ!”(4)…

Tháng 9/1930, phong trào của công – nông phát triển tới đỉnh cao. Ngày 1/9, cuộc biểu tình quy mô lớn diễn ra ở Thanh Chương (Nghệ An), có sự tham gia của các đội tự vệ đỏ canh gác để cô lập huyện đường Thanh Chương với các xã và tự vệ các tổng Xuân Lâm, Đại Đồng… bao vây, trấn áp tổng lý ở các làng để cắt đứt liên lạc của địch từ Vinh lên, từ Đô Lương xuống. Cũng ngày này, hơn hai nghìn nông dân có tự vệ hỗ trợ đã biểu tình, giương cao các biểu ngữ yêu cầu thả những công nhân Bến Thủy đã bị bắt, giải tán Hội đồng đề hình, đòi được lập hội…; đồng thời, kéo về bao vây huyện lỵ, thiêu hủy huyện đường và truy bắt tri huyện, phá nhà lao… dẫn đến sự tan rã của chính quyền thực dân ở các làng, xã trong huyện. Khi đó, các Ban Chấp hành Nông hội đỏ (xã bộ nông) đã đứng lên nắm quyền cai quản nông thôn. Sau cuộc biểu tình ngày 1/9, “trong số 76 lý trưởng (76 làng, xã) ở Thanh Chương, đã có 35 người đem sổ sách và con dấu nộp cho “xã bộ”. Toàn huyện có 65/76 làng xã có Ban Chấp hành nông hội đỏ nắm quyền cai quản nông thôn”(5).

Các “làng đỏ” đã hình thành ở một số vùng nông thôn Nghệ – Tĩnh. Tại Nghệ An, sau các cuộc biểu tình quyết liệt đầu tháng 9/1930, chính quyền Xô viết  hình thành ở gần như khắp các làng, xã của huyện Thanh Chương, Nam Đàn và nhiều vùng khác thuộc Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Anh Sơn… Còn ở Hà Tĩnh, các Xô viết  cũng xuất hiện ở nhiều xã của huyện Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ, Cẩm Xuyên, Nghi Xuân… Trong các Xô viết, quần chúng nhân dân tự tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và đó chính là những Xô viết đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam –  Xô viết  Nghệ – Tĩnh.

Trước thực tế phong trào phát triển mạnh mẽ ở Nghệ – Tĩnh, nhất là việc bạo động lập Xô viết, Trung ương Đảng nhận định chủ trương đó là “chưa đúng hoàn cảnh vì trình độ dự bị của Đảng và quần chúng trong nước chưa đủ, vũ trang bạo động cũng chưa có – bạo động riêng lẻ trong vài địa phương trong lúc bây giờ là quá sớm, là manh động”(6). Cho nên, “những chỗ đã lập Xô viết rồi phải huấn chỉnh cho chu đáo, làm sao cho các hạng cố, bần, trung nông hết sức ủng hộ Xô viết và cho Xô viết  là chính quyền của mình mới được. Mỗi việc trong làng đều lấy danh nghĩa Xô viết chớ không bao giờ lấy danh nghĩa đảng hay nông hội”(7). Đồng thời, Trung ương cũng chỉ thị các cấp ủy đảng hai tỉnh vừa phải tiếp tục duy trì ảnh hưởng của Đảng, của các Xô viết  trong lòng quần chúng vừa phải “tổ chức lại huyện bộ và cán sự chi bộ dự bị bí mật, còn những đảng bộ bây giờ thì cứ hoạt động công khai”.

Ý NGHĨA LỊCH SỬ  VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Xô Viết – Nghệ Tĩnh là kết quả cao trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân và tại các “làng đỏ” – các Xô viết, Ban Chấp hành Nông hội đỏ (xã bộ nông) đã lãnh đạo quần chúng thực thi một số biện pháp đầu tiên của chính quyền cách mạng: 1) Chính quyền thực dân và những luật lệ cũ bị xóa bỏ, thực hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân và mọi người dân đều được tự do thảo luận và góp sức vào công việc chung; 2) Thi hành tịch thu ruộng đất công, tiền, lúa công để chia cho dân cày nghèo; bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối, xóa nợ cho người nghèo, thực hiện giảm tô…; 3) Quần chúng nhân dân được hưởng cuộc sống mới; sách, báo và tài liệu của cách mạng được phổ biến rộng rãi. Việc học chữ quốc ngữ được coi trọng gắn với đẩy mạnh phong trào bài trừ hủ tục mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội; 4) Các đội tự vệ đỏ được thành lập để bảo vệ chính quyền nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự, trấn áp kẻ thù, chống khủng bố. Các tổ chức quần chúng hoạt động động mạnh, trong đó phụ nữ và thiếu niên tham gia sinh hoạt đoàn thể và nhiều hoạt động xã hội như tự vệ, liên lạc, tuyên truyền, cổ động, rải truyền đơn… 5) Tình làng, nghĩa xóm gắn kết chặt chẽ; trong đó, nhiều hội ái hữu, tương tế được thành lập; người neo đơn, ốm đau được chăm sóc…

Lo sợ trước cao trào đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, thực dân Pháp đã tiến hành các biện pháp khủng bố dã man. Ngày 12/9, cuộc biểu tình của 8.000 nông dân ở Hưng Nguyên và Nam Đàn bị máy bay ném bom của Pháp sát hại hơn 200 người và làm hơn 100 người bị thương. Những ngày sau đó, nông dân các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn… vẫn tổ chức biểu tình, phản đối hành động dã man của chính quyền thực dân. Công nhân các nhà máy khu Vinh – Bến Thủy cũng đấu tranh quyết liệt hơn để đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống sa thải công nhân, ủng hộ các cuộc biểu tình của nông dân… Thực hiện “Tuyên bố về việc bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng” của Trung ương Đảng, ở Trung Kỳ, Nam Kỳ và Bắc Kỳ, phong trào đấu tranh cách mạng phát triển rộng lớn, làn sóng biểu tình to lớn diễn ra với nhiều hình thức phong phú, thể hiện tinh thần đoàn kết, ủng hộ, bảo vệ Xô Viết – Nghệ Tĩnh, chống “khủng bố trắng”, thiết thực chống chính sách áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến.

Xô Viết – Nghệ Tĩnh là một dấu mốc lịch sử trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân và đó chính là “giá trị của Xô Viết – Nghệ Tĩnh trong lịch sử Đảng ta, đấy cũng là ý nghĩa của việc nghiên cứu Xô Viết – Nghệ Tĩnh trong quá trình nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”(9).

Dù còn sơ khai, song thực sự các Xô viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh đã thực thi chức năng của chính quyền nhà nước; tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của mình, thực sự là một chính quyền của dân, do dân, vì dân. Dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian không dài do bị chính quyền của thực dân, phong kiến địa phương đàn áp, song Xô Viết – Nghệ Tĩnh với chính quyền kiểu mới thực sự do nhân dân làm chủ vẫn khắc sâu trong tâm trí quần chúng; đồng thời, cũng để lại những kinh nghiệm quý báu trong công tác lãnh đạo của Đảng ta.

Một là, cao trào cách mạng 1930 – 1931 nói chung và Xô Viết – Nghệ Tĩnh nói riêng là cuộc “tổng diễn tập” đầu tiên của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xô Viết – Nghệ Tĩnh đã đánh dấu bước ngoặt phát triển của cao trào cách mạng 1930-1931; trong đó, Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân đã khẳng định vai trò, vị trí lãnh đạo của mình. Đồng thời, sự phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân cho thấy vai trò quan trọng của mối liên minh công – nông trong quá trình tập hợp lực lượng cách mạng đấu tranh chống đế quốc và phong kiến ở Việt Nam.

Tượng đài Xô viết - Nghệ Tĩnh (thị trấn Nghèn - Can Lộc- Hà Tĩnh).

Tượng đài Xô viết – Nghệ Tĩnh (thị trấn Nghèn – Can Lộc- Hà Tĩnh).

Hai là, cao trào 1930 – 1931 và Xô Viết –  Nghệ Tĩnh là minh chứng cho thấy “đây là lần đầu tiên dân cày, thợ thuyền và lính khố xanh đã siết chặt tay nhau trên chiến trường, đoàn kết lại để hình thành một đoàn thể duy nhất, một đạo quân duy nhất… Cuộc đấu tranh quyết liệt của dân cày và công nhân Nghệ An và những kết quả đạt được… mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đấu tranh để xóa bỏ các giai cấp, kỷ nguyên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, thói bạo ngược của bọn cường hào quan lại”(8). Đồng thời, cũng để lại cho Đảng bài học kinh nghiệm về việc xây dựng chủ trương, đường lối đúng đắn; đề ra khẩu hiệu đấu tranh phù hợp, đáp ứng nhu cầu và khát vọng của quần chúng nhân dân, những người đã và đang đói khát, lại phải chịu “sưu thuế nặng nề và nạn áp bức xã hội và chính trị làm cho cảnh ngộ của họ càng cùng cực hơn”.

Ba là, thông qua cuộc thử lửa đầy gay go, ác liệt này, Đảng Cộng sản Việt Nam và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng không chỉ được tôi luyện trong thực tiễn mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo và sức ảnh hưởng trong quần chúng. Thông qua cuộc “tổng diễn tập” này, Đảng rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn, nhất là việc cần phải nắm sát tình hình, chuẩn bị tốt lực lượng, đón đúng thời cơ khi tương quan lực lượng cho phép và phải được chuẩn bị chu đáo mới tiến hành khởi nghĩa…

Bốn là, diễn tiến phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng  cùng những báo cáo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam nói chung và Xô Viết – Nghệ Tĩnh nói riêng đã giúp Quốc tế Cộng sản, các tổ chức trực thuộc Quốc tế Cộng sản cùng các Đảng cộng sản hiểu rõ hơn về những “biểu hiện của một Đảng Bônsơvích mặc dầu còn ấu trĩ mắc phải tả khuynh và nhiều thiếu sót trong công tác”(10) và phương pháp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Thông qua đó, ghi nhận “phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sản trong các xứ thuộc địa nhất là các nước phương Đông”(11), kịp thời cổ vũ, động viên phong trào của quần chúng; đồng thời, đề ra chủ trương, biện pháp phù hợp, uốn nắn và giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương khắc phục hạn chế trong công tác.

Nguồn: Tuyengiao.vn, TS. TRẦN THỊ BÌNH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Bài viết liên quan