Phan Đăng Lưu – Nhà cách mạng tiền bối xuất sắc, một trí thức cách mạng tiêu biểu
MỘT TRÍ THỨC CÁCH MẠNG TIÊU BIỂU
Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902 trong một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước ở thôn Đông, xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Phan Đăng Lưu học chữ Hán từ năm lên sáu tuổi, gần mười năm sau bắt đầu học tiếng Pháp ở quê nhà Yên Thành và trường Tiểu học Pháp – Việt, thị xã Vinh, tháng 6/1920. Sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học, Phan Đăng Lưu thi vào trường Quốc học Huế, bậc trung học và đỗ loại giỏi; học hết năm thứ nhất, nộp đơn thi vào trường Nông nghiệp thực hành Tuyên Quang. Trong một bức thư gửi cha mẹ thời gian này, Phan Đăng Lưu đã viết: “Người trí thức không thể chỉ nghĩ đến danh lợi cho riêng mình, mà phải lo điều ích nước, lợi dân… Gần đây, con được xem một số sách về nông nghiệp Âu Tây, thấy họ có nhiều phương pháp trồng trọt, chăn nuôi tiến bộ, nhờ đó mà nước họ thịnh vượng, giàu có.”. Sau hai năm miệt mài học tập (năm 1921-1923), Phan Đăng Lưu tốt nghiệp xếp loại giỏi thứ 5.
Chân dung đồng chí Phan Đăng Lưu và danh sách Đảng viên Tân Việt trong đó có đồng chí Phan Đăng Lưu (năm 1929). Ảnh: Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh |
Khi bước vào con đường cách mạng, Phan Đăng Lưu đã rất thành thạo tiếng Pháp, giỏi chữ Hán, Bạch thoại. Tháng 5/1928, Phan Đăng Lưu được Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Đảng cử vào Huế, tham gia Ban Thường vụ của Tổng bộ và làm Ủy viên Tỉnh bộ Huế; tham gia Ban biên tập Quan Hải Tùng Thư do Đào Duy Anh đứng đầu. Cơ quan này đã biên tập, biên dịch, in và phát hành được 13 cuốn sách, trong đó Phan Đăng Lưu trực tiếp dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt hai đầu sách của tập Xã hội luận trong bộ sách của Đông Phương Văn Khố (Trung Quốc) và cuốn Lịch sử học thuyết kinh tế (quyển Hạ) theo Kinh tế học thuyết sử của Nhật Bản. Ông cũng dịch và biên soạn nhiều tài liệu: A.B.C Chủ nghĩa Mác, Dân chủ mới; các cuốn Xã hội luận, Lịch sử các học thuyết kinh tế…
Phan Đăng Lưu được Tổng bộ Tân Việt hai lần cử sang Quảng Châu, Trung Quốc để bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Lần đầu, ông xuất phát giữa tháng 12/1928, kết thúc giữa tháng 5/1929. Chuyến đi ấy, khi vừa đến Quảng Châu thì gặp tình huống rất bất lợi, khó khăn: Ngay trước đó, Tưởng Giới Thạch làm chính biến phản cách mạng, trở mặt đàn áp, bắt bớ các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc và những người nước ngoài nghi là cộng sản; đồng chí Nguyễn Ái Quốc rời sang Liên Xô. Phan Đăng Lưu và người cùng đi tìm đến các địa chỉ cần thiết để tìm hiểu tình hình, thu thập sách, báo, tài liệu, nhất là tài liệu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, về chủ nghĩa Mác, tình hình cách mạng ở Liên Xô và Trung Quốc, các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin… mang về nước. Giữa tháng 9/1929, ông tiếp tục được Tổng bộ Tân Việt cử sang Trung Quốc, nhưng vừa ra đến Hải Phòng thì bị mật thám Pháp bắt đưa về giam ở Vinh, đầu năm 1930 bị đày lên nhà tù Buôn Mê Thuột. Để vận động lính Êđê và tù nhân người Thượng bị chúa ngục Pháp nhồi nhét tư tưởng chia rẽ, hằn học tù nhân người Kinh, Phan Đăng Lưu tự học tiếng Êđê, vận động anh em, đồng chí cùng học. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ông đã nói thạo tiếng Êđê, “xuất bản tờ báo” bí mật mang tên Doãn Đê tù báo.
Ở trong tù, Phan Đăng Lưu cùng các đồng chí mình học tập lý luận, trao đổi nhiều vấn đề về đấu tranh cách mạng, động viên tinh thần và chí khí chiến đấu; sáng tác thơ ca, viết báo bí mật gửi ra ngoài lên án chế độ lao tù dã man của thực dân. Ra tù sau 7 năm bị giam cầm, ông lại lao vào công việc ở xứ ủy Trung Kỳ. Khoảng giữa tháng 10/1937, để góp phần nâng cao nhận thức và trình độ lý luận phổ thông cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, với bút danh Tân Cương, Phan Đăng Lưu đã viết hai cuốn sách bỏ túi: Xã hội tư bản, Thế giới cũ và thế giới mới (mỗi cuốn chỉ xấp xỉ 30 trang), cung cấp những thông tin và kiến thức cần thiết về tình hình thế giới; về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc; về giai cấp vô sản; về Liên bang Xô viết – một chế độ xã hội tốt đẹp của nhân loại…
Tháng 9/1937, Phan Đăng Lưu tham dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng tại Hóc Môn, Bà Điểm, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 3/1938, Hội nghị đại biểu cả ba Xứ ủy bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, Phan Đăng Lưu và Lê Duẩn tham gia Ban Thường vụ, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 11/1940, ngay sau khi dự Hội nghị tái lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Hội nghị Trung ương 7), Phan Đăng Lưu trở lại Nam Kỳ và bị mật thám Pháp bắt giam, bị Tòa án thực dân Pháp kết án tử hình. Trong những ngày cuối cùng chốn lao tù, Phan Đăng Lưu vẫn cùng các đồng chí mình học tập, nghiên cứu, đánh giá và rút ra những bài học xương máu về khởi nghĩa Nam Kỳ.
Năm 1959, trong dịp thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, tại gian trưng bày ảnh các đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng ta, trước ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nói: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”. |
SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ, VĂN HÓA, VĂN NGHỆ
Sự nghiệp báo chí cách mạng
Như đã nêu, đầu năm 1930, Phan Đăng Lưu bị đày từ nhà tù ở Vinh vào nhà tù Buôn Mê Thuột. Ở đây, ông bí mật cho ra Doãn Ðê tù báo – tờ báo viết tay trên giấy vụn, giấy nhặt được trong tù bằng chữ Việt và chữ Êđê, ông phụ trách mục tin tức, bình luận và dạy tiếng Êđê. Các bài viết của ông ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, nói về nỗi nhục mất nước, về quan hệ gắn bó giữa người Êđê và người Kinh, về tấm gương của những người yêu nước bị tù đày, về cách nhìn cảm thông của tù nhân với những người Êđê bị ép buộc làm những điều mà họ không muốn… Nhờ tờ báo mà mối quan hệ giữa những người tù, lính canh được cải thiện rõ rệt. Một số lính canh còn giúp những người tù yêu nước nhiều việc có ích. Dù bị cai ngục thường xuyên đánh đập, cầm cố, nhưng Phan Đăng Lưu vẫn viết nhiều bài báo, cả tiếng Việt và tiếng Pháp, bí mật gửi ra bên ngoài lên án chế độ nhà tù tàn bạo, kêu gọi dư luận bên ngoài hỗ trợ cuộc đấu tranh của tù nhân.
Vừa ra khỏi nhà tù Buôn Mê Thuột, Phan Đăng Lưu bị quản thúc ở Huế, Ông khẩn trương chắp nối liên lạc với Đảng, tiếp tục đấu tranh cách mạng. Tháng 3/1937, tại Ðông Pháp Lữ quán, số 7 đường Ðông Ba, Thành phố Huế, Ðại hội Báo chí Trung Kỳ khai mạc với sự tham gia của hơn 70 nhà báo. Phan Ðăng Lưu vừa là người lãnh đạo, vừa là nhà báo cách mạng đã hướng Đại hội vào những nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa lúc bấy giờ. Xứ ủy Trung Kỳ giao Nguyễn Chí Diểu chỉ đạo nội dung của báo Nhành Lúa (do Nguyễn Xuân Lữ làm chủ nhiệm), Phan Ðăng Lưu và các đồng chí khác mua lại tờ Sông Hương của Phan Khôi, đổi tên thành Sông Hương tục bản. Báo nêu rõ quan điểm của Ðảng, phát động quần chúng đấu tranh, tập trung cho cuộc vận động Ðông Dương Ðại hội Trung Kỳ và cuộc đón Gôđa – Đặc sứ của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương.
Phan Đăng Lưu được Xứ ủy Trung Kỳ giao nhiệm vụ cùng các ông Hải Triều, Hải Thanh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Sơn Trà, Xuân An, Phan Bá Nguyên, Hồ Cát, Nguyễn Cửu Thạnh chủ trương mở Hội nghị báo giới Trung Kỳ nhằm thành lập Mặt trận báo chí dân chủ, đấu tranh cho tự do báo chí. Cũng trong giai đoạn này, Đảng đề ra chiến lược, sách lược “Cải tổ các Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt ở Nam Kỳ”; không gạt bỏ nghị trường mà lợi dụng nghị trường; không tẩy chay tuyển cử mà tham gia tuyển cử và Đảng cần “chuẩn bị người ứng cử vào các Viện Dân biểu, Hội đồng Thành phố”. Phan Đăng Lưu được Xứ ủy phân công trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh gay go, cân não này. Báo Sông Hương tục bản ra nhiều bài viết, chuyên mục, tiểu mục đặc sắc, giàu tính chiến đấu. Mục “Chiếu diện” của tác giả Nghị Toét – bút danh của Phan Đăng Lưu, “chiếu” trực tiếp vào các ứng cử viên phái hữu như Lê Thanh Cảnh, Nguyễn Quốc Túy, Trần Bá Vinh đang là ứng cử viên; vạch mặt chỉ tên những kẻ bán dân hại nước, lường gạt cử tri (như Bùi Huy Trứ, Nguyễn Quang Triệt, Cao Văn Chiến, Lâm Quang Nghị, Trần Nhật Tân, Nguyễn Đình Điển…). Với 18 ứng cử viên là người của Ðảng và có tư tưởng tiến bộ do Xứ ủy và Sông Hương tục bản giới thiệu, cổ vũ, hỗ trợ đã đắc cử Viện Dân biểu Trung Kỳ, “chiếm ghế” Viện trưởng, Viện phó và phần lớn các Ủy viên Ban Thường trực.
Ngày 24/12/1937, một số đại biểu vừa trúng cử Viện Dân biểu Trung Kỳ dưới sự gợi ý, đề xuất của Phan Ðăng Lưu đã làm đơn xin xuất bản tờ báo lấy tên là Dân. Báo Dân kết hợp chặt chẽ với các đại biểu tiến bộ trong Viện Dân biểu và phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh to lớn chống sưu cao, thuế nặng, chống áp bức bất công, đòi tự do ngôn luận, đặc biệt là đánh bại dự án thuế thân và thuế điền thổ do Khâm sứ Trung Kỳ đưa ra.
Báo Dân không tồn tại được bao lâu do kẻ địch biết đó là sự thay đổi tên gọi của Sông Hương tục bản trước đó và đứng đằng sau vẫn là Phan Ðăng Lưu, là Xứ ủy Trung Kỳ (báo ra được 17 số, từ tháng 7 đến tháng 10/1938).
Cơ quan Xứ ủy và Phan Ðăng Lưu tiếp tục cho ra tờ Dân tiến. Ðể tránh sự kiểm duyệt gắt gao của Khâm sứ Trung Kỳ, báo được biên tập ở Huế sau đó đưa vào Sài Gòn in ấn, phát hành ở Nam Kỳ. Ra được 5 số thì Dân tiến bị nhà cầm quyền đóng cửa. Không chịu khuất phục, Phan Ðăng Lưu cho ra tiếp tờ báo Dân muốn, vẫn biên tập ở Huế, in và phát hành ở Sài Gòn.
Hai năm 1940, 1941, tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp. Ở trong nước, bọn tờrốtxkít tập hợp những tên phản bội đủ màu sắc lập một mặt trận chống cộng sản, vu cáo Đảng ta; tìm cách phá ảnh hưởng của Đảng, lái quần chúng, nhất là nông dân, vào con đường đầu hàng, tiêu cực. Phan Đăng Lưu tiếp tục sử dụng vũ khí báo chí để đập tan những luận điệu phản động, lừa dối nhân dân của bọn chúng. Trong đó có báo Tiền phong, Công luận, Diễn đàn Đông Dương (Tribune Indochinoise) vào cuộc đấu tranh tư tưởng quan trọng này.
Sách “Phan Đăng Lưu – Tiểu sử”, tác giả Nguyễn Thành đã nêu ở nhiều trang, thống kê chưa đầy đủ đã có ít nhất 95 bài báo của Phan Đăng Lưu trên các báo cách mạng và tiến bộ với những bút danh: Sông Hương, Dân, Dân Muốn, Phi Bằng, Bằng Phi, Tân Cương, Lý Toét, BCH, QB, SH, KD, Mục Tiêu, Thương Tâm, KĐ… xuất bản ở Huế và Sài Gòn.
Sự nghiệp văn hóa, văn nghệ
Phan Đăng Lưu sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, ông nội và phụ thân là trí thức nông dân, thông thạo Nho, y, lý, số; ông ngoại đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan, cụ là tác giả bài thơ “Vua con” nổi tiếng ở vùng quê Yên Thành. Ở tuổi trưởng thành, Phan Đăng Lưu thông thạo chữ Hán, tiếng Pháp, được đọc các tác phẩm của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Tôn Dật Tiên, Môngtétxkiơ, Vônte, Rútxô, thơ văn Phan Bội Châu và các chí sĩ yêu nước khác.
Khi bị giam cầm ở nhà tù Buôn Mê Thuột, Phan Đăng Lưu tiếp tục sáng tác thơ ca để động viên tinh thần đồng chí của mình và chia sẻ với tù thường phạm vốn là những người lương thiện trước đó.
Phan Đăng Lưu còn đưa các tác phẩm văn học, nhất là thơ và tiểu phẩm, vào các số báo, trang báo, vừa bám sát tính thời sự, vừa đảm bảo tính dí dỏm, châm biếm sâu cay. Có 17 tiểu phẩm như vậy đăng trên báo Sông Hương tục bản, chủ yếu ở mục “Chiếu diện” của tác giả Nghị Toét đả kích trực diện bọn bán dân hại nước trong các cuộc tranh cử.
Nhà thơ Tố Hữu kể lại câu chuyện được Phan Đăng Lưu khích lệ, gợi ý để sau đó dần trở thành nhà thơ cách mạng: “Một hôm anh hỏi tôi: – Cậu biết làm thơ không ? Tôi đáp: – Niêm luật Đường thi, ca dao, lục bát thì tôi nắm được nhưng không biết thơ có hay không. – Vậy thì tốt rồi, anh Lưu nói – Báo ta (tức báo “Dân”) hơi “khô”. Cậu biết làm thơ hãy làm những bài thơ về những người lao động nghèo khổ. Nghèo khổ không phải là số phận, mà là do đế quốc, phong kiến bóc lột, là do sưu thuế nặng nề. Những cảnh ăn mày, đầy tớ, trẻ mồ côi,… có rất nhiều điều cần viết để thức tỉnh nhân dân. Cậu cố gắng viết để đăng được mỗi số một bài hoặc vài số một bài, có thể nhờ đó dân thích đọc báo ta hơn. Nhưng phải chú ý: dễ hiểu, dễ nhớ và đừng dài dòng”.
Giữa năm 1939, khi chính quyền thực dân đàn áp báo chí, đóng cửa hàng chục tờ báo yêu nước, Phan Đăng Lưu tập trung nhiều hơn trí lực cho nghiên cứu văn học. Với bút danh Phi Bằng, ông sưu tầm, biên soạn cuốn Thơ văn các nhà chí sĩ Việt Nam, sách được cụ Huỳnh Thúc Kháng viết lời tựa (in trên báo Tiếng dân năm 1939). 22 chí sĩ được lựa chọn, giới thiệu trong sách đều là những nhà yêu nước, anh dũng chống xâm lược Pháp. Ông còn viết loạt bài “Văn thơ của các chí sĩ Việt Nam”; góp nhiều ý kiến đối với đồng chí Hải Triều trong cuộc tranh luận “Văn học vị nghệ thuật” hay “Văn học vị nhân sinh” lúc đó.
Có một tác phẩm văn học đặc biệt “Thư viết từ khám tử hình” mà tác giả là Phan Đăng Lưu. Bức thư này ông gửi cho con trai yêu quý trước giờ ly biệt vĩnh viễn. Bức thư viết bằng tiếng Pháp, một thứ ngôn ngữ Pháp chuẩn mực, điêu luyện, nội dung đa nghĩa, nhiều ẩn ý do phải vượt qua song sắt khám tử hình, vượt qua cả sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù.
Phan Đăng Lưu đã sống đẹp đẽ, chiến đấu, hy sinh kiên cường, dũng cảm, lẫm liệt. Ông đã và sẽ mãi mãi bất tử bởi lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc; tư duy, phương pháp công tác vững vàng, tài tình; bản lĩnh và nghệ thuật lãnh đạo sắc sảo, mẫn tiệp. Ông là một trí thức cách mạng lớn, tiêu biểu; một nhà báo, nhà văn tài ba, chuyên nghiệp; một nhà lãnh đạo xuất chúng. Ông đã để lại tấm gương sáng ngời về nhiều mặt: tri thức, tài năng, bản lĩnh, đạo đức, phong cách, đức khiêm tốn, nghĩa xả thân và nhiều bài học quý giá, dài lâu. Ông đã góp phần xứng đáng xây dựng nền móng ban đầu cho sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy tổ chức và đảng viên của mình, với nhân dân, với cách mạng, nổi bật nhất là trên trận địa tư tưởng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ./.
PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình VH, NT Trung ương