Cơ đồ của đất nước – Từ kết quả phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam
Đây là nhận định hàm chứa những nội dung lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện những thành tựu to lớn của việc thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước.
1. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội – Một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam
Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội, thể hiện trong các văn kiện của Đảng và được thể chế hóa trong các chính sách của Nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội luôn rõ ràng, nhất quán và xuyên suốt. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội, theo đó phát triển kinh tế là kết quả tổng hợp của sự tăng trưởng. Tiến bộ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu hướng tới, có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí trong đó lấy con người làm trung tâm.
Điều đó thể hiện tầm quan trọng và nội dung của mối quan hệ này, được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển và nhấn mạnh trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), và các văn kiện của Đại hội XI, XII và các Nghị quyết của Trung ương.
Một là, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Đây là một trong 8 mối quan hệ lớn, đến dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng, xác định 10 mối quan hệ lớn được đặt ra, cần nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng phát triển cơ bản, nhằm thực hiện thành công các mục tiêu được đặt ra, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định ”Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Chính sách đó gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế và nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ, theo đó: “…kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[2].
Từ Đại hội VII, đến Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục làm rõ, thể hiện sự nhất quán về vấn đề này. Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[3], đã định hướng nội dung, phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xác định mục tiêu quan trọng đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.
Hai là, xác định đây là một chủ trương lớn, nhất quán so với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã phát triển quan điểm: “Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội” (Cương lĩnh năm 1991) thành “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”. Tiếp đó, phát triển chủ trương “Khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động” (Cương lĩnh năm 1991) thành “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững” và phát triển chủ trương “thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội” (Cương lĩnh năm 1991) thành “hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”.
Điểm nhất quán và xuyên suốt của chủ trương này là mỗi bước phát triển kinh tế đều phải gắn với thực hiện các chính sách xã hội, trực tiếp là phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lấy phát triển kinh tế là điều kiện, coi tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu hướng tới và đảm bảo đồng bộ trong các chính sách.
Ba là, Đảng và Nhà nước Việt Nam cho rằng, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, cũng như đảm bảo quốc phòng và an ninh.
Việt Nam luôn xác định tính nhất quán trong xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp với từng giai đoạn, giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định xã hội với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không được coi nhẹ lĩnh vực nào. Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có phát triển kinh tế nhanh và bền vững mới có cơ sở để giải quyết các vấn đề xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong quá trình phát triển, cũng như thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, vì con người.
Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững nếu trong xã hội không có sự công bằng nhất định, đa số dân chúng sống nghèo khổ, thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Bên cạnh đó, do điều kiện lịch sử và bối cảnh mới của khu vực và thế giới, Việt Nam không thể bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của mình, nhất là tình hình căng thẳng diễn ra thường xuyên ở Biển Đông, nếu như kinh tế không phát triển.
Bốn là, quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Việt Nam.
Cụ thể: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”, là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới (phát triển bền vững và bao trùm), góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn quan điểm về phát triển bền vững, phát triển bao trùm hiện đang được thảo luận nhiều trên thế giới cũng như tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.
Ở đây, cần phải thấy rằng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển bao quát nhiều nội dung sâu sắc:
(1). Đó là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cần được thực hiện trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài.
(2) Khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ. Điều này vừa thể hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh, bền vững trong thời đại ngày nay, vừa nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là không hơn gì kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, càng không thể nói đến tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
(3) Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội sẽ tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế chứ không phải là gánh nặng kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người. Tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực. Để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, hưởng thụ với cống hiến.
2. Một số kết quả chủ yếu trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam những năm qua
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể là:
(1). Nhận thức về văn hóa và gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Vai trò của văn hóa ngày càng thể hiện rõ trong việc xây dựng con người, có tác động to lớn trong đời sống xã hội.
(2) Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát triển kinh tế – xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển.
(3) Các nội dung phát triển văn hóa, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, được thể hiện cụ thể trong tất cả các hoạt động văn hóa, như: chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; các địa phương đã lồng ghép việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình với các đợt tuyên truyền khác.
(4) Tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên rõ rệt nhờ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, thể hiện rõ ở các lĩnh vực hoạt động văn hóa. Chính sách văn hóa trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, di sản được tiếp tục hoàn thiện. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.
(5) Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được cụ thể hóa trong xây dựng thể chế, phát triển ngành, lĩnh vực văn hóa. Trong đó, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa đã có những kết quả bước đầu, tích cực.
Thứ hai, trong những năm qua, thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng, Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp, điển hình là Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020; Các chính sách khác như miễn giảm học phí cho trẻ em theo học ở các cơ sở giáo dục công lập; Chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo; Chính sách chăm sóc sức khỏe, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi và một số nhóm trẻ em khác; Quyết định bỏ hộ khẩu và giấy tờ công dân trong thủ tục hành chính, thực hiện các quy định trong Luật Cư trú; Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025; Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020; Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025… So sánh mức độ bất bình đẳng của Việt Nam và một số nước khác trên thế giới trong khoảng thời gian 10 gần đây, theo Ngân hàng thế giới, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các nước trong cùng nhóm thu nhập trung bình thấp. Như vậy, sự phân phối thu nhập của Việt Nam vẫn trong ngưỡng khá an toàn, so với các nước cùng khung thu nhập. Ngoài ra, sự bất bình đẳng về thu nhập tại Việt Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Maylaisia và Thái Lan, và cao hơn Hàn Quốc, một nền kinh tế phát triển của châu Á.
Thứ ba, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã có một hệ thống các chính sách khá toàn diện, điển hình là Nghị quyết số 80/NQ-CP về Định hướng giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2011-2020; Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011-2020, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020…
Việt Nam đã hoàn thành được Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Xét theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo cũng giảm dần theo thời gian cùng với quá trình tăng trưởng. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều của Việt Nam cũng giảm từ 9,9% năm 2015 xuống 9,2% năm 2016 và xuống còn dưới 7% năm 2017, còn khoảng dưới 3% vào năm 2020; trong đó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo cũng được cải thiện như: tiếp cận bảo hiểm y tế tăng 11,7%, sử dụng dịch vụ viễn thông tăng 5,2%. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất, trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Thứ tư, những nỗ lực trong tạo việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở việc thông qua và triển khai thực hiện các luật, các chiến lược quốc gia và chương trình phát triển quốc gia, điển hình là Luật Lao động; Luật Việc làm; Luật An toàn và vệ sinh lao động; Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; Luật Quy hoạch; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020; Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2020; Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chiến lược Hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược Phát triển thanh niên giai đoạn 2011-2020; Chương trình hợp tác quốc gia Việt Nam – ILO về việc làm bền vững giai đoạn 2017-2021; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030…
Cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cùng có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm dần, từ 4,3% năm 2010 xuống còn khoảng 3,1% năm 2019, riêng năm 2020 do tác động của dịch bệnh Covid-19 tỉ lệ lao động mất việc làm, thất nghiệp gia tăng, đây là tình hình chung của nhiều nước trên thế giới. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Theo Tổ chức y tế thế giới, tuổi thọ trung bình của Việt Nam đạt 76,3 tuổi, số năm sống khẻ sau tuổi 60 đạt 17,2 năm, đứng thứ 42/183 nước[4].
Thứ năm, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ trong việc đảm bảo bình đẳng giới thông qua các luật, chiến lược và chính sách về bình đẳng giới, điển hình là Hiến pháp; Luật Bình đẳng giới; Luật Lao động; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Đề án Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Chương trình hành động quốc gia Phòng chống bạo lực gia đình 2014-2020; Đề án Giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình tại khu vực nông thôn Việt Nam 2015-2020; Kế hoạch hàng năm thực hiện giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hônnhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số; Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025…
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, bình đẳng giới ở Việt Nam đã được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị cho tới kinh doanh và văn hoá-xã hội. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Tỷ lệ đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999-2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016-2021. Ngoài ra, tính đến hết tháng 8/2017, có 12/30 bộ, ngành có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Lần đầu tiên trong lịch sử Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội là nữ (Quốc hội khóa XIV).
Thứ sáu, phát triển con người được Việt Nam đặc biệt chú trọng thông qua giáo dục và đào tạo với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Điều này được thể hệ thông qua hệ thống các luật, chiến lược và chính sách phát triển, điển hình là Luật Giáo dục; Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Dạy nghề; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-202024; Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011-2020; Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính phủ về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành giáo dục giai đoạn 2016-2020; Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020; Đề án Xóa mù chữ đến năm 2025…
Với mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên trên cả nước đã tăng rõ rệt . Điều này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các chương trình về xóa mù chữ. Năm 2016, ước tính tỷ lệ nam giới biết chữ là 96,6% trong khi tỷ lệ này ở nữ giới đã lên tới 93,5% và dự kiến đến năm 2030, khoảng cách này sẽ càng thu hẹp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng có xu hướng tăng đều qua các năm. Như vậy, tăng trưởng kinh tế đã được song hành với sự cải thiện về vốn con người trong thời gian qua.
3. Phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần to lớn làm nên cơ đồ của đất nước hiện nay
Phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội góp phần to lớn vào việc quản lý, phát triển xã hội. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, theo hướng bền vững, Đảng và Nhà nước Việt Nam có nhiều nguồn lực, điều kiện tốt hơn cho đất nước phát triển nhanh, bền vững, thể hiện trên một số vấn đề lớn sau:
(1) Kinh tế phát triển, lòng tin của nhân dân được nâng lên, góp phần quan trọng vào việc giữ ổn định xã hội, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tin tưởng vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia cụ thể hóa và tổ chức thực hiện, thúc đẩy trở lại tăng trưởng kinh tế.
(2) Kinh tế phát triển góp phần giảm các điểm nóng, xung đột xã hội, chính người dân chủ động tham gia bảo vệ sự ổn định xã hội, đấu tranh chống lại các phần tử cơ hội làm mất ổn định môi trường sống, kinh doanh, hình ảnh của đất nước đối với bên ngoài.
(3) Có điều kiện để Nhà nước thực hiện các chính sách bình đẳng giữa các dân tộc, giai tầng xã hội; giữa thành thị, nông thôn và vùng đồng bào dân tộc, miền núi; hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư, quản lý nhà nước về đô thị, nông thôn, vùng dân tộc, miền núi được hoàn thiện theo hướng phù hợp, công bằng.
(4) Có điều kiện thực hiện chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng tốt hơn, người dân được chăm lo đầy đủ hơn về đời sống vật chất, tinh thần; có điều kiện hơn về đảm bảo sự bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, con người có điều kiện phát triển toàn diện. Thực tế việc giải quyết đại dịch Covid- 19 vừa qua cho thấy, nhờ có phát triển kinh tế, nhà nước Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để chăm lo sức khỏe cho người dân, giữ vững ổn định xã hội.
Việt Nam được coi là điểm sáng phòng chống dịch COVID-19. (Ảnh minh họa. Ảnh: TL) |
(5) Kinh tế phát triển, Nhà nước có thêm nhiều nguồn lực để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; an ninh xã hội, an ninh con người, vị thế của đất nước được nâng cao trên trường quốc tế. Do vậy, để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ này bền vững, cần phải nhất quán trong nhận thức và hành động, phải gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Bối cảnh thế giới và trong nước thời gian tới có nhiều nhân tố tích cực và hạn chế, thời cơ và thách thức trong việc phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam. Quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, những thành quả của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho Việt Nam, phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường…. Do đó, trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau gần 35 năm đổi mới, tiến tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030, 100 năm thành lập nước vào năm 2045, cơ đồ của đất nước bước sang một trang mới tươi sáng hơn,Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện mới. Xác định tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế, kinh tế chỉ phát triển nhanh và bền vững khi coi trọng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và đặt con người là trung tâm của sự phát triển.
Tiến bộ và công bằng xã hội cần được tập trung trong phát triển văn hóa, con người. Do đó, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XII và tới đây là Nghị quyết Đại hội XIII, về phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa. Thực hiện tốt quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách phát triển kinh tế phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, như: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao, nguồn lực còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, nhưng một số lĩnh vực văn hóa, giáo dục phát triển không tương xứng; giữa chủ trương phát triển, quản lý xã hội với việc tổ chức thực hiện; giữa yêu cầu phát triển xã hội, phát triển con người với thực trạng hạn chế về nguồn nhân lực; giữa thực tiễn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với công tác lý luận, định hướng phát triển.
Bốn là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy sự phát triển. Quán triệt quan điểm tiến bộ và công bằng xã hội trong thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực quan trọng, đặc biệt là các khu vực còn nhiều khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dân tộc thiểu số. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc quản lý, phát triển xã hội. Cần có định hướng và những chính sách nhằm phát huy năng lực, bồi dưỡng chuyên môn và nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong lĩnh vực này. Bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý xã hội đúng chuyên môn sở trường, có năng lực, kinh nghiệm. Thường xuyên có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Năm là, xây dựng, củng cố, phát huy thiết chế xã hội các cấp trong việc gắn kết phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các địa phương quan tâm đầu tư, phải dành quỹ đất và ưu tiên bố trí địa điểm cho việc xây dựng và mở rộng, phát triển hệ thống thiết chế xã hội các cấp, đồng thời thực hiện chủ trương xã hội hoá. Xây dựng, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ phát triển xã hội, quyền tiếp cận bình đẳng của người dân và phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Chính quyền các cấp đầu tư đúng mức cho lĩnh vực quản lý, phát triển xã hội,tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để nâng cao khả năng dự báo về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và định hướng phát triển; xây dựng con người Việt Nam toàn diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, góp phần phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Theo Tuyengiao.vn, PGS.TS Phạm Văn Linh
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương