Học và làm theo phương pháp dân vận Hồ Chí Minh
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ, cán bộ và cấp ủy các cấp phải sâu sát với công việc và sâu sát với nhân dân, dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi nhân dân xã Tân Phong, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (12/02/1956). Ảnh tư liệu
PHƯƠNG PHÁP DÂN VẬN “LẤY DÂN LÀM GỐC”
Tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh được kế thừa từ truyền thống lịch sử của cha ông ta. Khi nhìn nhận về vai trò, sức mạnh của nhân dân, các bậc tiền nhân đã dạy: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” (Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn); tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi: “Chúng chí thành thành” (Ý chí của nhân dân là thành lũy vững chắc); sức dân như nước, chở thuyền hay lật thuyền cũng do dân: “Lật thuyền mới rõ dân như nước. Cậy hiểm khôn xoay, mệnh ở trời”.
Kế thừa tư tưởng “trọng dân”, “thân dân” theo truyền thống của dân tộc, đồng thời Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, cho nên Người đặc biệt đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân. Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”; “Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”1; “dân là gốc của nước”; “dân là quý nhất, là quan trọng nhất2. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: “Dân là gốc của nước”, là lực lượng chủ yếu của cách mạng, vì dân có số lượng đông, vì “mọi lực lượng đều ở nơi dân”. Dân cũng là những người làm ra mọi của cải vật chất và giá trị văn hóa, nuôi sống bộ máy Nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”3.
Xuất phát từ quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cho nên cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã hy sinh phấn đấu vì hạnh phúc của hết thảy đồng bào. Năm 1946, khi nước nhà mới giành được độc lập, trả lời một phóng viên nước ngoài, Người bộc bạch: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào… chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”4.
Phương pháp “Lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh là phải tôn trọng nhân dân, làm lợi cho dân để nhân dân hăng hái tham gia, ủng hộ sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Vô luận việc gì đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”, cho nên phải xem xét mọi việc để có lợi cho dân. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”5 và “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng… chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”6. Theo Người, muốn tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng, vấn đề rất quan trọng là phải làm thế nào mà “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”7. Người nhấn mạnh: “Kinh nghiệm trong nước và các nước đã cho chúng ta biết: Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”8.
Gốc rễ của tư tưởng “lấy dân làm gốc” là vấn đề quan hệ máu thịt, gắn bó giữa Đảng với dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”9 và đó là bài học xương máu của các đảng chính trị nói chung, nếu phạm vào sai lầm vừa xa dân vừa che giấu khuyết điểm. Như lãnh tụ cách mạng V.I.Lênin đã kết luận: “Tất cả các đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo ra sức mạnh của mình, vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”10. Vì vậy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ đảng viên phải thường xuyên đánh giá kết quả công tác, thực hiện phê bình và tự phê bình, kịp thời nhận ra khuyết điểm, để sửa chữa sai lầm; gắn công tác phê bình với việc kiểm tra và giám sát chặt chẽ từ chương trình hành động, kế hoạch của cấp ủy đến của mỗi cán bộ, đảng viên để xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
PHƯƠNG PHÁP “DÂN VẬN KHÉO” LÀ PHẢI BIẾT PHÁT HUY DÂN CHỦ
Phát huy dân chủ tức là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để dân thực sự được “làm chủ” và thực sự “là chủ”. Hồ Chí Minh chỉ rõ, phát huy dân chủ không chỉ là “ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ” mà còn là “không được phung phí nhân lực, vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ dân cũng là biết tôn trọng dân”11. Trong quan hệ với nhân dân, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác dân vận phải sâu sát, tìm hiểu kỹ càng, “hiểu nguyện vọng của dân, sự cực khổ của dân. Hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của dân… Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân”.
Để có thể “nói dân tin, ở dân quý, làm dân theo”, người cán bộ dân vận phải khiêm tốn học hỏi nhân dân, thành thực lắng nghe sự góp ý, phê bình của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm trò dân mới làm được thầy học dân”12. Nếu dân góp ý sai thì giải thích cho dân hiểu, nếu có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và nghiêm túc sửa chữa, tuyệt đối không được khinh rẻ ý kiến của nhân dân; không được dùng quyền hành để “áp bức phê bình”.
Tròn 24 năm trên cương vị đứng đầu Đảng, Nhà nước, dù bận nhiều công việc, nhưng để hiểu dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn bố trí tiếp dân tại Phủ Chủ tịch và dành thời gian để đi xuống cơ sở, tìm hiểu, “lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”13. Những chuyến công tác về địa phương trực tiếp làm việc với nhân dân, đã giúp Người nắm sát công việc, hiểu đúng tình hình, từ đó đưa ra những quyết định chỉ đạo đúng đắn, hợp lý, hợp tình, phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, các cuộc gặp gỡ giữa Người với các tầng lớp đồng bào, là dịp để đồng bào trao đổi, bày tỏ tâm tư nguyện vọng với người đứng đầu Nhà nước, đồng thời là nguồn động viên to lớn đối với nhân dân, là cơ sở thắt chặt hơn niềm tin giữa Đảng với dân. Với Hồ Chí Minh, không bao giờ Người coi mình đứng cao hơn nhân dân, mà chỉ tâm niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân dân, “như một người lính vâng mệnh quốc dân ra trước trận”14.
Đối với nhân dân, từ các vị nhân sĩ trí thức đến bà con nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức mẫu mực, là tượng đài toả ra ánh sáng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn. Mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế ai cũng thấy ở Người sựgần gũi, ấm áp tình thương và sự bao dung, nếp sống giản dị và đức tính khiêm nhường, một sự giản dị thật vĩ đại, bởi vì Người đã hy sinh tất cả cho Tổ quốc, cho nhân dân. Trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”15.
DÂN VẬN BẰNG PHƯƠNG PHÁP “NÊU GƯƠNG”
“Nêu gương” là phương pháp giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hành đạo đức cách mạng, xây dựng nền tảng xã hội mới. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, “nêu gương” là một trong những phương pháp vận động nhân dân hữu hiệu nhất. Để tập hợp được lực lượng, vận động được quần chúng, được quần chúng tin tưởng, sẵn sàng tham gia và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, thì người đảng viên, người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận phải là những tấm gương sống.
Khi nhận xét về V.I.Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, V.I.Lênin là người “đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ” và “không phải thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc Châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”16.
Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu phải trở thành tấm gương: “Nói đi đôi với làm”; “Nói ít, làm nhiều”, hướng về dân, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân để đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ, cán bộ và cấp ủy các cấp phải sâu sát với công việc và sâu sát với nhân dân; dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải luôn thấu triệt tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, quyền là do nhân dân ủy nhiệm, nên phải dốc lòng phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân”. Cán bộ dân vận phải luôn ghi nhớ tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền văn hóa tiên tiến, đồng thời luôn luôn quan tâm đến những công việc nhỏ như tương, cà, mắm, muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”17. Từ đó, có ý thức và hành động, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện phương pháp nêu gương trong công tác dân vận, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, không gì thuyết phục hơn là bằng hành động thực tiễn, bằng việc làm cụ thể, Hồ Chí Minh nói, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, vì “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”18. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực trong việc khởi xướng, gương mẫu thực hiện phong trào “hũ gạo cứu đói” (1945). Người đề xuất và tự mình mỗi tuần nhịn ăn một bữa, góp phần gạo vào hũ gạo cứu đói, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, trở thành phong trào rộng lớn trong cả nước. Nêu gương bằng hành động để thuyết phục nhân dân nghĩa là người cán bộ phải đi đầu, xông pha vào những nơi ác liệt nhất, gánh vác những công việc khó khăn nhất; giải quyết mọi công việc, từ vận động, tập hợp lực lượng, đến chỉ đạo đến triển khai thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình lãnh đạo hay thực thi công việc, người cán bộ đều phải nêu gương, sẵn sàng xông pha đi đầu vào những nơi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nêu gương bằng hành động là: “Nói đi đôi với làm”, nói được thì phải làm được; “chưa làm được thì chưa nói”; cán bộ cấp trên gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao trước cán bộ cấp dưới; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện vủa bệnh quan liêu, mệnh lệnh, giáo điều, sính dùng câu chữ to tát nhưng xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng; kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”, “nói một đường làm một nẻo”, “a dua theo đuôi quần chúng”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ, ỷ lại, sợ trách nhiệm.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, dùng phương pháp “nêu gương” để vận động nhân dân đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Bởi vì, quần chúng nhân dân luôn chú ý tới lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên để xem có nên noi theo hay không. Và cũng qua đó, họ biết rất rõ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cán bộ dân vận là những người làm việc thường xuyên và trực tiếp với dân; có những ưu điểm, khuyết điểm gì, đã sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm đến đâu… đều được dân đánh giá. Cán bộ, đảng viên càng giữ chức vụ cao, đảm trách vị trí quan trọng, nhất là người đứng đầu, càng phải hết sức nêu gương tự phê bình và phê bình; luôn tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi.
Người quán triệt: “Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân”. Để trở thành tấm gương trước nhân dân, phải gương mẫu, tiên phong trong công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng, đồng thời phải khiêm tốn, luôn học hỏi, cầu tiến bộ. Để nhận ra được sai sót, khuyết điểm mà kịp thời sửa chữa, cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng phải có ý thức tự phê bình và phê bình, Người nói: “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ”19, bởi vì: “Một Đảng mà giấu khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, từ đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”20. Người phân tích, để trở thành tấm gương, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải luôn coi trọng vấn đề rèn luyện tác phong cách lãnh đạo, tác phong công tác. Đó là tác phong sâu sát thực tiễn, gần gũi nhân dân, thực hành dân chủ, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Hồ Chí Minh dạy, cán bộ dân vận phải có tác phong: “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, chứ không phải nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”21.
Thông qua kết quả làm việc của cán bộ, đảng viên trong thực thi nhiệm vụ để xây dựng niềm tin của dân với Đảng là nhiệm vụ hết sức quan trọng của công tác dân vận và của cán bộ dân vận. Niềm tin của nhân dân với Đảng sẽ chỉ có và được khẳng định khi lời nói và việc làm của cán bộ được nhân dân thừa nhận đúng; chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống. Do đó, công tác tuyên truyền, vận động phải bám sát lý luận và thực tiễn, với mục tiêu hướng tới phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, bằng tinh thần “dĩ công vi thượng”.
Để lựa chọn được cán bộ dân vận tốt, có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác dân vận; để trở thành những tấm gương, trong công tác cán bộ, lãnh đạo cấp ủy và chính quyền cần lắng nghe dân để có sự lựa chọn đúng dắn, khách quan; lựa chọn những người cán bộ thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức và lối sống, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo và cán bộ làm công tác dân vận. Mặt khác, kiên quyết loại bỏ những người có biểu hiện thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, toan tính cá nhân, cơ hội, thực dụng, xa dân và sách nhiễu dân; việc xử lý cán bộ thoái hóa, biến chất phải kịp thời, công khai, đúng người, đúng tội và được sự giám sát của nhân dân. Nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tha hóa quyền lực như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, kéo bè kết cánh, “đầu cơ chính trị”, quan hệ “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa đọa về đạo đức, lối sống v.v..
Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng thời, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để họ rèn luyện bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường và nâng cao năng lực lãnh đạo, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngăn ngừa sự dao động, mất niềm tin của cán bộ và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đó là những vấn đề căn cốt của phương pháp “dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
70 năm trước, trong tác phẩm “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15/10/1949, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là động viên tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc được Chính phủ và Đoàn thể giao cho” và “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
PGS, TS. Trần Minh Trưởng
Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Theo Tạp chí Tuyên giáo điện tử
Hà An (st)